Viêm đài bể thậ mạn phần lớn do viêm đài bể thận cấp tiến triển thành, lâm sàng biểu hiện phức tạp, nặng nhẹ không giống nhau, có thể không có biểu hiện chứng trạng gì, chỉ có vi khuẩn trong đường niệu; có thể có biểu hiện mỏi lưng, mệt, sốt nhẹ; có thể có biểu hiện viêm đài bể thận tái phát , khi tái phát biểu hiện đặc thù của viêm đài bể thận cấp. Viêm đài bể thận mạn có thể duy trì lâu dài vài năm, hoặc vài chục năm, giai đoạn cuối có thể từ từ phát triển sang suy thận, viêm đài bể thận mạn trước tiên tổn thương chức năng của tiểu quản thận, bệnh thường biểu hiện thường xuyên đái nhiều, tiếp đến xuất hiện ure máu tăng cao, viêm đài bể thận mạn có thể chia thành 3 loại: thể hoạt động, thể sẹo, thể tái phát. Đã có báo cáo thống kê tỷ lệ bệnh nhân viêm đài bể thận dẫn đến suy thận chiếm 20%.
Bệnh thuộc phạm trù chứng “lao lâm” của YHCT.
Cơ chế bệnh sinh của viêm đài bể thận mạn các quan điểm hiện nay tương đối thống nhất là chức năng và kết cấu đường niệu dị thường, vi khuẩn gây bệnh tồn tại lâu dài trong đường niệu, tổn thương tổ chức đài bể thận gây nên, ngoài ra còn liên quan đến yếu tố miễn dịch của cơ thể. YHCT quy nạp nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh của viêm đài bể thận mạn với các phương diện sau.
(1) Khí trệ huyết ứ
Can uất hóa hỏa, khí hỏa uất đi xuống hạ tiêu, bàng quang khí hóa bất lợi mà thành khí lâm, khí trệ lâu ngày ắt huyết ứ, khí huyết ứ trệ thận lạc, lâu ngày mà thành “lao lâm”, mỗi khi tình chí mất thông sướng bệnh nặng thêm.
(2) Thận hư thấp nhiệt
Hạ tiêu thấp nhiệt, dai dẳng lâu ngày, làm haop tổn thận âm, mà thành thận hư thấp nhiệt. Lâm sàng biểu hiện của thấp nhiệt bàng quang và thận hư. Bệnh tình nặng hơn khi gặp các yếu tố thuận lợi như có mệt mỏi, hoặc cảm phải ngoại tà.
(3) Tỳ thận lưỡng hư
Lâm chứng lâu ngày, ắt ảnh hưởng đến thận, tỳ thận có liên quan với nhau, cuối cùng tỳ thận lưỡng hư mà thành chứng “lao lâm”.